LS.
LÊ XUÂN CẢNH
Công
ty Luật Danalaw
Quy định về bị hại, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại nói chung và Luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích pháp cho bị hại nói riêng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 được
kế thừa và phát triển các quy định của BLTTHS 2003.
Theo
đó, BLTTHS 2015 đã có một số thay đổi, bổ sung như: tách riêng bị hại ra khỏi phạm
trù khái niệm đương sự (điểm g khoản 1 Điều 4); mở rộng khái niệm bị hại về đối
tượng bao gồm cá nhân và pháp nhân; đưa ra định nghĩa về người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại; bổ sung quy định Trợ giúp viên pháp lý có thể là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
Tuy nhiên, trong thực tế quá trình thực hiện
quy định của Điều 84 BLTTHS 2015 về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vẫn cho
thấy nhiều bất cập và trong phạm vi bài viết này tác giả phân tích các bất cập,
từ đó đề xuất/kiến nghị các giải pháp hoàn thiện.
1.
Bất cập trong quá trình thực hiện quy định về việc tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị hại của Luật sư và kiến nghị
1.1.
Xác định thời điểm tham gia tố tụng
Hiện nay, theo quy định tại Điều 84 BLTTHS
2015 về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự không có
quy định về thời điểm tham gia tố tụng, dẫn đến việc không xác định được thời
điểm nào Luật sư được tham gia tố tụng để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại.
Mặc dù, trước đây BLTTHS 2003 có quy định
về thời điểm Luật sư được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can (khoản 2 Điều
59) nhưng so với thực tế hiện nay vẫn còn bất cập, vì như vậy là quá muộn. Ví dụ
như các vụ án tai nạn giao thông gây chết người, thì đa số sau khi xảy ra tai nạn,
người nhà của bị hại đều tập trung lo đám tang cho bị hại, còn việc điều tra,
xác minh vụ tai nạn đều do Cơ quan điều tra tiến hành, nhưng rất nhiều trường hợp
Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vì chưa đủ căn cứ khởi tố
vụ án và cũng chưa đủ cơ sở để ra quyết định không khởi tố vụ án, nên rất cần có
sự hỗ trợ và tư vấn của Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
Do đó, theo tác giả, Luật sư bảo vệ cho
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cần được tham gia vào bất kỳ thời điểm nào
khi có đơn mời Luật sư để có thể giúp bị hại thực hiện việc thu thập, cung cấp
các chứng cứ hoặc đưa ra kiến nghị về việc điều tra để chứng minh tội phạm làm
cơ sở khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
1.2.
Thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại
Theo quy định của BLTTHS 2015 cũng như các
văn bản hướng dẫn đều không có quy định hướng dẫn về thủ tục, trình tự đăng ký
Luật sư tham gia bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại và tại Thông
tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an quy định về biểu mẫu, giấy
tờ, sổ sách về điều tra hình sự (Thông tư 61), thì không có biểu mẫu về việc
đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của bị hại.
Trong khi đó, đối với người bào chữa thì
BLTTHS 2015 đã có những quy định rất cụ thể về thủ tục đăng ký bào chữa (Điều
78), cũng như ban hành biểu mẫu Thông báo đăng ký/từ chối đăng ký bào chữa (Mục
7 Biểu mẫu sử dụng đối với người bào chữa ban hành kèm theo Thông tư số 61).
Việc thiếu các quy định về thủ tục đăng ký
cho Luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có thể dẫn đến
các hệ lụy pháp lý sau:
- Thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp
luật: Trên thực tế, khi Luật sư thực hiện thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị hại thì một số cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận việc
đăng ký của Luật sư và áp dụng thủ tục đăng ký như đối với người bào chữa và sửa
nội dung biểu mẫu Thông báo về việc đăng ký người bào chữa quy định tại Thông
tư số 61 thành Thông báo đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
hại.
Nhưng một số cơ quan tiến hành tố tụng lại
viện dẫn việc không có quy định về thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị hại và không có biểu mẫu, nên đã từ chối việc Luật sư tham
gia vào quá trình tố tụng.
- Không thực hiện được các quyền, nghĩa vụ
theo quy định của BLTTHS 2015: Trường hợp, Luật sư bị từ chối đăng ký tham gia
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dẫn đến các quyền và nghĩa vụ được
quy định tại khoản 3 Điều 84 BLTTHS 2015 không thể thực hiện trên thực tế và
không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
Vì vậy, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn
về thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đồng thời,
bổ sung các biểu mẫu liên quan nhằm đảm bảo các quy định tại Điều 84 BLTTHS
2015 được áp dụng đầy đủ.
1.3.
Về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại
So với BLTTHS 2003,
thì BLTTHS 2015 đã bổ sung một số quyền cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại để cho Luật sư có thể thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích
cho bị hại được tốt hơn như: (1) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá, (2) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (3) Có mặt
khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng,
nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; (4) Đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên
dịch, người dịch thuật; (5) Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Luật
sư tham gia bảo vệ quyền và nghĩa vụ của bị hại trên thực tế vẫn có một số
tranh cãi nhất định như: Luật sư bảo vệ cho bị hại có quyền đề nghị mức án cụ
thể đối với bị cáo hay chỉ được đề nghị chung chung về tội danh, việc áp dụng
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Về vấn đề này, mặc dù tại Điều 84 BLTTHS
2015 không quy định, nhưng chiếu theo các quyền và nghĩa vụ của bị hại tại
khoản 2 Điều 62 BLTTHS 2015 thì bị hại có quyền “Đề nghị hình phạt, mức bồi thường
thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường”.
Do
đó, theo tác giả, để bảo vệ quyền lợi cho bị hại và với vai trò là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, Luật sư cũng được quyền đề nghị áp dụng mức hình
phạt đối với bị cáo, mức bồi thường, biện pháp đảm bảo bồi thường ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét