Luật sư Lê Xuân Cảnh – Công ty Luật CTT và Cộng sự
Tóm tắt: Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), trong số các vụ kiện tranh chấp hợp đồng mà VIAC giải quyết thì 10 - 15% là hợp đồng xây dựng, trong đó có đến 66% vụ kiện liên quan tới tranh chấp về việc thanh toán. Ngoài ra, một số lượng lớn vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng khác được thụ lý và giải quyết bởi Tòa án nhân dân các cấp theo thẩm quyền luật định. Tuy nhiên, thực tiễn công tác giải quyết và xét xử, đặc biệt ở Tòa án nhân dân các cấp cho thấy, việc áp dụng pháp luật về việc tính lãi suất chậm thanh toán đối với các tranh chấp hợp đồng xây dựng chưa thống nhất và còn nhiều sai khác giữa các Tòa án. Do đó, bài viết sẽ tập trung phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về cách tính lãi suất chậm thanh toán trong lĩnh vực xây dựng và thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay.
1. Cơ sở pháp lý
Hiện nay, đối với hợp
đồng xây dựng được điều chỉnh bởi Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm
2020), Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, đây là cơ sở
pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng xây dựng cũng như xem xét việc áp
dụng cách tính lãi suất chậm thanh toán đối với các tranh chấp liên quan đến việc
thanh toán.
Theo đó, cách tính
lãi suất chậm thanh toán ở các văn bản pháp luật điều chỉnh để giải quyết tranh
chấp được nêu ở trên có sự khác nhau, cụ thể:
(1) Theo Nghị định số
37/2015/NĐ-CP[1] về quy định chi tiết về hợp
đồng xây dựng, thì lãi suất chậm trả theo lãi suất quá hạn do ngân hàng thương
mại nơi bên nhận thầu mở tài khoản thanh toán công bố tương ứng với các thời kỳ
chậm thanh toán và được tính từ ngày đầu tiên chậm thanh toán cho đến
khi bên giao thầu đã thanh toán đầy đủ cho bên nhận thầu, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác.
(2) Theo Luật Thương
mại năm 2005[2] thì tiền
lãi chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.
(3) Theo Bộ luật Dân
sự 2015[3]
thì lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 20%/năm, đối với
trường hợp không có thỏa thuận thì lãi suất chậm trả là 10%/năm và tương ứng với
thời gian chậm trả.
Như vậy, áp dụng
nguyên tắc áp dụng luật chuyên ngành thì đối với việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng xây dựng có yêu cầu tính lãi suất chậm trả, thì thứ tự ưu tiên áp dụng được
sắp xếp như sau[4]: Luật Xây dựng; Luật
Thương mại; Bộ luật Dân sự.
2. Thực tiễn hoạt động xét xử
của Tòa án và hướng giải quyết
Như đã phân tích ở trên,
do có nhiều quy định cùng điều chỉnh về việc tính lãi suất chậm trả đối với
tranh chấp hợp đồng xây dựng, nên có sự lúng túng và chưa có sự thống nhất giữa
các Tòa án khi tiến hành việc giải quyết vụ án.
Trong đó, đa số các
Tòa án khi tiến hành giải quyết tranh chấp về hợp đồng xây dựng đều xác định
đây là tranh chấp kinh doanh thương mại do hợp đồng được giao kết giữa các/bên
chủ thể là thương nhân và đều có mục đích sinh lời. Do đó, khi tiến hành giải
quyết yêu cầu tính lãi suất chậm thanh toán thường có xu hướng ưu tiên áp dụng
Luật Thương mại năm 2005 để làm căn cứ tính lãi suất.
Trong một số vụ án
nhất định, điều này lại không phù hợp với quy định của pháp luật vì đã không
tuân thủ thứ tự ưu tiên áp dụng ở trên, bởi lẽ đối với một số trường hợp thuộc
phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Nghị định số 37/2015/NĐ-CP thì phải áp dụng
quy định về tính lãi suất chậm trả theo khoản 2 Điều 43 của Nghị định này.
Ví dụ: Theo nội dung Bản án kinh doanh thương mại số 10/2020/KDTM-PT[5]
ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đ về tranh chấp hợp đồng xây dựng
giữa Công ty TNHH Xây dựng TM-DV L và Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ A về
việc nhận thi công hạng mục thoát nước dọc thuộc Dự án phát triển bền vững Đ
theo Hợp đồng số 51/2016/HĐKT/AT-LHB với yêu cầu đúng hồ sơ thiết kế, các yêu cầu
kỹ thuật theo điều kiện hợp đồng của Hợp đồng chính số 24/2015/HĐKT giữa Công
ty A và NLQ4.
Theo đó, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm nhận
định đối với yêu cầu tính tiền lãi suất chậm thanh toán như sau: “Theo quy định
tại Điều 306 Luật Thương mại và Điều 11 và Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP
thì Công ty A phải chịu mức lãi suất theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của
03 Ngân hàng: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tại thời điểm
xét xử sơ thẩm là 18,675%/năm. Tuy nhiên, Công ty L chỉ yêu cầu áp dụng mức lãi
suất 12%/năm là thấp hơn so với mức lãi suất mà Công ty A phải chịu, nên Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận là phù hợp”.
Đối với ví dụ nêu trên, việc Công ty A và Công ty L ký kết hợp đồng thi
công hạng mục thoát nước dọc thuộc Dự
án phát triển bền vững Đ là
Dự án đầu tư xây dựng của Ủy ban nhân dân thành phố Đ. Do đó, Công ty A và Công
ty L phải được xác định là tổ chức liên quan đến việc xác lập và quản lý thực
hiện hợp đồng thuộc dự án đầu tư xây dựng của cơ quan nhà nước theo
quy định tại điểm a khoản 22 Điều 1 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP.
Vì vậy, đối với yêu cầu tính tiền lãi chậm
trả của Công ty L đối với Công ty A, thì chúng tôi cho rằng, phải
áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 43 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP để giải
quyết, cụ thể “lãi suất chậm trả
theo lãi suất quá hạn do Ngân hàng thương mại nơi bên nhận thầu mở tài khoản
thanh toán công bố tương ứng với các thời kỳ chậm thanh toán và được tính từ ngày đầu tiên chậm
thanh toán cho đến khi bên giao thầu đã thanh toán đầy đủ cho bên nhận thầu” thì
mới phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.
Đối với thực trạng nói trên, chúng tôi cho rằng, về
cơ sở pháp lý để giải quyết yêu cầu tính tiền lãi chậm trả trong tranh chấp hợp
đồng xây dựng đã đầy đủ. Nhưng việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất giữa
các Tòa án gây nên những lúng túng cho đương sự khi tham gia giải quyết vụ án,
cũng như việc các bản án của Tòa án cấp dưới có thể bị sửa, hủy
hoặc bị xem xét giám đốc thẩm do áp dụng sai pháp luật khiến cho vụ án kéo dài.
Do đó, để giải quyết vấn đề trên, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn để Tòa án các cấp thực hiện hoặc ban hành các án lệ để việc áp luật pháp luật trong quá trình xét xử được thống nhất và đúng pháp luật./.
[1] Khoản 2 Điều 43 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính
phủ quy định
chi tiết về hợp đồng xây dựng.
[2] Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 11 Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
[3] Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4] Ls. Trương Nhật Quang - Ls. Lê Trần Quỳnh Thi, Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng (đề nghị bổ
sung thông tin đăng Tạp chí nào, số/năm?).
[5] Bản án số 10/2020/KDTM-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân thành
phố Đ về việc tranh chấp hợp đồng xây dựng, http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta506318t1cvn/chi-tiet-ban-an,
truy cập ngày 14/12/2021.
Nguồn: (https://lsvn.vn/lai-suat-cham-thanh-toan-trong-tranh-chap-hop-dong-xay-dung-thuc-tien-xet-xu-va-huong-giai-quyet1653846440.html)